GÓC LỊCH SỬ


    HÌNH TƯỢNG CON MÈO TRONG 

          TRANH TẾT ĐÔNG HỒ

1.      Con Mèo trong tâm thức dân gian người Việt Nam

Việt Nam vốn thuộc nền văn minh lúa nước nên con mèo có thể là một trong những loài vật đã được thuần hóa từ rất sớm. Do đó trong tâm thức dân gian của người Việt Nam, mèo là con vật rất thân thuộc và gần gũi vì là một loài vật ăn thịt nhưng có ích: nó diệt chuột phá hoại mùa màng, bảo vệ thành quả lao động của con người nên được con người yêu quý. Vì thế, hình ảnh con mèo đã đi vào đi vào văn hóa nghệ thuật với những câu ca dao, tục ngữ như Chó treo, mèo đậy, Mèo mù vớ cá rán, Mèo khen mèo dài đuôi, Nam thực như hổ, nữ thực như miêu,Con mèo trèo lên cây cau, hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà….. Đặc biệt, qua những bức tranh khắc gỗ, mèo còn được xuất hiện ở những nơi chốn tôn nghiêm như hình ảnh mẹ con nhà mèo quây quần được chạm nổi ở bia chùa Linh Quang- Hải Phòng; trong bức chạm khắc “Mèo ngoạm Cá” ở đình Đại Phùng xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng TP.Hà Nội  hay bức “Mèo Ngoạm Cá” ở đình Bình Lục xã Hồng Phong,TX. Đông Triều tỉnh Quảng Ninh, hoặc bức chạm “Mèo vờn chuột” ở đình Mậu Duyệt xã Cẩm Hưng  huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. …đều đã phản ánh một nét tư duy trong tâm thức dân gian của người xưa về con vật gần gũi và hữu ích với con người.



Từ khi các dòng tranh dân gian ra đời ở Việt Nam thì hình ảnh con mèo cũng được góp mặt vào văn hóa nghệ thuật. Trong tranh “Trạng chuột vinh quy” của làng tranh Đông Hồ, người ta bắt gặp hình ảnh “Tiến sĩ chuột” vinh quy cưới vợ đang biếu quà cho lão mèo già đang ngồi vễnh râu hiền lành, đưa tay ra nhận chút quà mọn trong tiếng trống, tiếng kèn hay hình ảnh một “Đám cưới chuột” rình rang nhưng cũng không quên mang chim, cá làm tí quà mọn biếu cho cụ mèo.

1.      Tranh dân gian Đông Hồ

Tranh dân gian là những tác phẩm nghệ thuật bình dân được tạo nên bởi những người nghệ sĩ dân dã chỉ quen thuộc với những công việc, nghề nghiệp của mình mỗi ngày. Mặc dù vậy, tranh dân gian lại đầy những tính sáng tạo độc đáo khi miêu tả về cuộc sống cũng như những cảm nhận về thế giới xung quanh. Do tính chất lâu đời và phổ biến nên tranh dân gian có vị trí rất quan trọng trong kho tàng di sản văn hóa -nghệ thuật của dân tộc Việt Nam.

Đến nay, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra được 12 dòng tranh dân gian tiêu biểu của Việt Nam như Tranh Đông Hồ, Tranh Kim Hoàng, Tranh Hàng Trống, Tranh Thập vật, Tranh làng Sình, Tranh Đồ thế Nam Bộ, Tranh Kính Nam Bộ, Tranh Thờ miền núi, Tranh Gói vải…..[1]. Trong các dòng tranh này có tranh dân gian Đông Hồ là loại tranh chơi Tết phổ biến của vùng châu thổ Bắc Bộ thuộc dòng tranh in từ ván khắc gỗ là điển hình hơn cả. Tên đầy đủ dòng tranh dân gian Đông Hồ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam gắn bó và thể hiện sinh động xã hội nông nghiệp Việt cổ truyền với những phong tục, tập quán, sinh hoạt của người dân Việt Nam xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), ra đời từ khoảng thế kỉ 16 - 17 và phát triển cho đến nửa đầu thế kỉ 20 sau đó suy tàn dần. Đặc biệt tranh Tết Đông Hồ có nhiều tranh với chủ đề tranh chúc tụng với các bức tranh “Em bé ôm mèo”, “Em bé ôm phật thủ”, Tranh nhân nghĩa (“Em bé ôm cóc”), Tranh lễ trí (“Em bé ôm rùa”), Tranh vinh hoa “Em bé ôm gà”, Tranh phú quý (“Em bé ôm vịt”)….

Về hình thức, tranh Đông Hồ được làm từ Giấy điệp (vỏ con điệp trộn với hồ được làm từ bột gạo tẻ, gạo nếp hoặc bột sắn); màu sắc đều có nguồn gốc tự nhiên nên tranh thường chỉ có 4 màu, người ta in từng mảng màu theo thứ tự (mảng màu đỏ, xanh lá đậm, vàng và đỏ) trước, cuối cùng mới in nét đen.Tranh được in màu lên giấy từ các bản khắc gỗ khác nhau, mỗi bản khắc lên 1 màu tranh, cho nên đường nét trong tranh  không quá rườm rà, kỹ lưỡng. Các tranh xưa thường có chữ Hán cổ để minh họa nội dung, nhưng dần dần đã bị bỏ. 

Ngoài vẻ đẹp về mặt mỹ thuật, nội dung tranh Đông Hồ lấy đề tài từ các tích truyện, cảnh vật hay sinh hoạt… phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ một cách tinh tế, qua đó thể hiện tình cảm, ước mơ của con người về một cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc, thanh bình thông qua các hình tượng người, vật trong tranh. Đặc biệt, tranh Đông Hồ có nhiều tầng nấc ngữ nghĩa mà để giải mã chúng là công việc đầy lý thú nhưng cũng khó khăn.Trước kia, tranh được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại gở bỏ, dùng tranh mới. Nhân dịp năm Quý Mão, năm mà con Mèo là bản mệnh của một năm theo quan niệm của hệ thống âm lịch, chúng ta cùng tìm hiểu hình tượng của con Mèo trong di sản tranh Tết Đông Hồ.

1.      Con mèo trong tranh dân gian Đông Hồ

Chủ đề trong tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như tất cả những gì diễn ra trong đời sống bình dị của người lao động như “Chăn trâu thổi sáo”, “Hứng dừa”, “Đấu vật” cho tới những ước mơ, khát vọng cuộc sống tốt đẹp hơn như “Vinh hoa”, “Phú quý”, “Lợn đàn”, “Gà đàn”, nhưng tranh dân gian Đông Hồ không chỉ đề cập đến cuộc sống mà còn có nét hấp dẫn  khi đề cập đến các vấn đề của xã hội như “Đám cưới chuột”, “Trạng chuột vinh quy”với cái nhìn hóm hỉnh mà sâu sắc thông qua hình tượng những con vật gần gủi trong đời sống  như Chuột, Mèo trong đó đặc biệt là sự xuất hiện của con mèo cùng với đàn chuột trong 2 bức tranh  nỗi tiếng là “Đám cưới chuột” và “Trạng chuột vinh quy”.

Đây là hai bức tranh tuy cùng tái hiện đám rước chuột, thoạt nhìn qua có vẻ giống nhau nên xưa nay khá nhiều người nhầm lẫn, cho rằng đó chỉ là hai tên gọi của cùng một bức tranh dân gian Đông Hồ nhưng nếu đặt cạnh nhau và quan sát kỹ thì ta mới cảm nhận được sự khác biệt giữa chúng nhất là về mặt ý nghĩa bởi hình ảnh minh họa, chữ viết được phản ánh trên tranh gợi nên hai nội dung hoàn toàn không giống nhau về ngày vu quy ngày vinh quy.

Trước nay, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ở “Đám cưới chuột”, bức tranh mô tả một đám cưới xưa khá khá long trọng với đủ cờ, quạt, kèn, trống và các loại lễ vật nhưng đây lại là đám cưới của nàng chuộtchàng chuột - những “nhân vật” đại diện cho tầng lớp bình dân nhất trong xã hội. Bức tranh có thể chia làm hai tuyến: Tuyến trước (gần) là là hai nhân vật chính: chàng rễ chuột đội mũ, cưỡi ngựa hồng đi trước còn nàng dâu chuột ngồi kiệu theo sau giữa không khí tưng bừng của đoàn rước và đông đảo họ hàng nhà chuột lũ lượt theo hầu hạ, đón rước. Tuy nhiên, chàng rễ chuộtnàng dâu chuột  cùng quân sĩ theo hầu có dáng vẻ sợ hãi, thấp thỏm, ngó trước, nhìn sau bởi đám rước đi trên con đường ngoằn nghoèo như báo trước tình cảnh khó khăn. Và đúng như thế, tuyến sau (xa) cho thấy việc này  đã được lường trước và họ nhà chuột   đã cử “phái đoàn” đi “lót tay” cho lão mèo già, đang khúm núm cống nạp những phẩm vật khoái khẩu của họ nhà mèo như: chim câu, cá chép…; còn ở góc trên bức tranh, là Lão mèo già (nhân vật trung tâm được các tác giả dân gian tập trung khắc họa, tạo sự chú ý tập trung của người xem) tỏ ra rất quyền uy đang giơ chân, phồng má, trợn mắt, gương râu, múa vuốt ra uy doạ dẫm, đón chặn. Ngoài ra, còn có những chữ Hán làm rõ thêm nội dung bức tranh: miêu (mèo), tống lễ (lễ biếu), tác nhạc (tấu nhạc), lão thử thủ thân (chuột già giữ mình), chủ hôn, nghênh hôn…[1]



 Còn ở bức tranh Trạng chuột vinh quy lại diễn tả một “đám rước chuột” vinh quy, cũng tưng bừng, rộn rã với đông đảo họ hàng nhà chuột nhưng  không có đường phân cách giữa tranh. Và phẩm vật “cống nạp” cho lão mèo già chỉ còn con cá chép mà không con chim câu nhưng lại có thêm tên chuột lính mở đường giương lá cờ mang chữ Vinh quy. Ở đây cho thấy, cùng một cũng cách cống nạp ấy nhưng lại chứa một thông điệp khác: Cho dù có được vinh danh, mũ cao áo rộng ở đâu, thì cũng phải  “cống nạp” theo “ đất lề quê thói” khi đã về tới quê hương bản quán. 

Theo cách giải thích này thì hai bức tranh có ý tưởng sâu xa mang tính châm biếm nhằm đả kích sâu cay, tố cáo tệ nạn nhũng nhiễu, hối lộ, ăn của đút lót của bọn quan lại phong kiến thống trị mà con mèo là đại diện cho thế lực quan lại, thống trị còn những chú chuột thuộc tầng lớp hạ đẳng bị cai trị, áp bức, bần cùng. Chính vì thế cho nên cả đời nhà chuột từ lúc sinh ra cho đến lúc“cưới vợ” và cả  khi học hành đỗ đạt, “vinh quy bái tổ” thì phải thường xuyên sống nhẫn nhục trong sự lo âu dưới nanh vuốt của loài mèo luôn rình rập! Điều này, dễ tạo được lòng thương cảm của người xem, xót xa cho thân phận của những chú chuột khi xem qua bức tranh.

Một tác phẩm nghệ thuật, người xem có quyền suy diễn, có quyền phán đoán khác nhau và nếu xem xét từ góc độ xuất xứ, một số tranh Đông Hồ được gọi là tranh Tết, thì chắc hẳn khi sáng tác, các nghệ nhân dân gian cũng chỉ muốn khắc họa khung cảnh trong tranh với những điều tốt lành nhằm tạo không khí vui tươi cho ngày Tết chứ chẳng hề nghĩ đến những chuyện sâu xa để thêm phiền lòng. Và, nếu quả là như vậy thì  có thể giải thích về bức tranh “Đám cưới chuột” một cách khác đi cho hợp với phong tục ngày Tết để từ đó, người xem liên tưởng đến bầu không khí rộn ràng của một đám rước dâu vui vẻ, tưng bừng với cờ lộng, trống kèn và sính lễ là những lễ vật đặc trưng, còn chú mèo ngồi ở góc trên bên phải bức tranh có thể xem là người đại diện đón nhận lễ hay là nhân vật để chứng giám cuộc hôn nhân của chuột với ý nghĩa là mang đến điềm lành  tới bởi tranh không cho thấy chi tiết nào mang hàm ý hách dịch, hạnh họe hung dữ của mèo như nhiều người trước nay từng nghĩ. Bức tranh này gợi lại khung cảnh đám cưới rực rỡ, nhộn nhịp khiến người ta nhớ lại những ngày tháng xưa kia khi việc cưới không còn chỉ là việc riêng của một cá nhân, một gia đình mà nó còn là công việc trọng đại của một xóm làng, một xã hội thu nhỏ và suy rộng ra ý nghĩa của những bức tranh này là một câu chuyện lan tỏa niềm vui trong mùa Tết: một đám cưới tưng bừng, một lễ rước vinh quy cho thấy sự hạnh phúc tràn trề, về sự đầm ấm hạnh phúc của chú rễ chuột, tiến sĩ chuột  một còn con mèo an yên về sự no đủ với cống lễ là cá, là chim

Theo GS. Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng Viện Văn hoá dân gian Việt Nam, những bức tranh này thể hiện rất rõ tâm lý “dĩ hòa vi quý” của người Việt, muốn mọi người xung quanh ai cũng được no đủ, cùng hưởng niềm vui để cuộc sống của mình cũng được yên ổn. Hình ảnh mèo nhận lễ vật của chuột dâng tặng  còn có ý nghĩa: tôi muốn tồn

tại thì anh cũng cần phải tồn tại và tôi hạnh phúc thì anh cũng phải được hưởng niềm vui ấy.[1] Nhân vật mèo ở đây cho thấy, dù chuột có thể “không đội trời chung” với mình, nhưng vẫn tỏ vẻ hài lòng, tán đồng trong các ngày lễ  trọng đại của chuột: vu quy và vinh quy. Đây có thể xem như một bản thỏa thuận ngầm về sự cộng sinh giữa hai mặt đối lập, mà ở đó đích đến cuối cùng là sự cam kết cùng nhau tồn tại, cùng nhau phát triển.

Tuy nhiên cũng cần phải nói thêm rằng trong thực tiễn cuộc sống thì “dĩ hòa vi quý” là sống hòa hợp, biết yêu thương, biết nhường nhịn nhưng không có nghĩa là thờ ơ, cả nể, không dám nêu lên quan điểm cá nhân, sợ mất lòng người khác mà trở thành người ba phải, không có chính kiến.

Từ đó có thể thấy, ngoài phản ánh nét văn hóa dân tộc thì qua các bức tranh Đông Hồ nói chung và hình ảnh con mèo trong hai bức tranhĐám cưới chuột” và “Trạng chuột vinh quy” cũng nên nhìn nhận ở khía cạnh tích cực, hướng mọi người đến sự cộng sinh cùng nhau phát triển để giúp mọi người  có cách xử lý tình huống và mâu thuẫn trong cuộc sống một cách có lý, có tình như hình tượng Mèo – Chuột trong tranh

Để cầu mong cho một năm Quý Mão an vui, thiết nghĩ không có gì ý nghĩa hơn là cùng thưởng lãm “Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”[1] của tranh Đông Hồ qua hai bức tranh đơn giản mà ý nghĩa nhất là “Em bé ôm Mèo” với mong muốn các bé ngoan ngoãn nhanh nhẹn, thông minh và mưu trí như Mèo và nhà nhà tràn đầy hạnh phúc, may mắn, giàu sang như bức tranh Phú Quý “ Em bé ôm vịt”./

Lâm Thanh Sơn

( Bài đăng trên Đồng Tháp-Xưa &Nay Tập 78 X

NGUỒN THAM KHẢO

[1] https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/2001/65568/djoc-djao-buc-cham-meo-ngoam-ca-o-djinh-djai-phung.html

[1] http://nghethuatxua.com/tu-buc-cham-go-xua-meo-ngoam-ca-toi-vai-net-ve-dieu-khac-co-viet-nam/

[1] https://www.elledecoration.vn/cultural-special/heritage/cham-linh-thu-trong-dinh-lang-viet

_________________________________________________________________________

[1]https://dangcongsan.vn/van-hoc-nghe-thuat/trung-bay-chuyen-de-12-dong-tranh-dan-gian-tieu-bieu-viet-nam-400497.html

_________________________________________________________________________

[1] https://giaoduc.net.vn/su-nham-lan-giua-2-buc-tranh-chuot-post206483.gd

_________________________________________________________________________

[1] Nguồn: https://giaoduc.net.vn/su-nham-lan-giua-2-buc-tranh-chuot-post206483.gd

_________________________________________________________________________

[1] https://tranhnamdinh.vn/blog/tin-in/y-nghia-tranh-dam-cuoi-chuot-cua-lang-tranh-dan-gian-dong-ho.html 

[1] http://bacninh.com/xem-san-pham/28102/tranh-em-be-om-meo-.html

[1] Trích từ bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm.

__________________________



TẢN MẠN SÓC TRĂNG

______________________________

                                                                 Lý Hoàng Minh

 Còn nhng con đường, nhng dòng sông thì ta mang tr cho ai và gi v đâu?

      Khi có tui người ta hay hoài c và thương nh mt cái gì đó xa vi, nhp sng hin ti, tng ngày, tng ngày chuyn mình như vũ bão, nhưng sao chúng ta mun gi mãi mt vài điu thuc v xưa cũ, nó không nh hưởng gì, nhưng nhiu khi không còn có ích na, mt tm nh trng đen nhc nhòa, mt lá thư, cánh thip úa vàng. Có th mt ngày đp tri nào đó mang đến trao li cho ch nhân ca nó, đ đó cũng chng sao, có th mt ngày chúng ta nhìn nó s không còn cm giác na. Đó là nhng th đ vt, hin hu, ta có th nhìn thy, cm nm nâng niu, còn nhng k nim tn ti trong trí nh ca ta, trái tim ta, nhng con đường, nhng dòng sông thì ta mang tr cho ai và gi v đâu?

      Tht dong dài khi bt đu mun nói mt điu gì đó, nhng con đường, nhng dòng sông và còn nhiu th na qun quít quanh đây. Nhng người tng sng Sóc Trăng là c mt khung tri k nim tui thơ êm đm trôi qua vi h. Tôi đc quyn sách ca C Vương Hng Sn v mt nhng con đường, ph ch Sóc Trăng mt thi xa xưa nghe là l, n tượng. Đó cũng là nim xúc cm, tôi hi tưởng viết nhng dòng ny, nh li nhng con đường, nh nhng cây cu mình tng đi qua, nh dòng sông tm mát và nh nhng người quen biết xa xưa…

      “Lúc ô tô chưa ra đi, thì con đường Đi Ngãi, khúc ni lin ch Sóc Trăng ra ch Văn Cơ ( Trường Khánh ) là đông người lai vãng và vui v nht. Đường ny thu y đã được tri đá xanh bng phng, hai bên đường trng cây tràm lá xanh lơ thơ như liu, mi cơn mưa tnh hương hoa tràm ta ra thơm ngây ngt nh nhàng, chiu chiu ông Tây bà đm người nào th thao thì t cm cương xe đc mã thùng bng mây đan, người nào đài cát thì chm ch ngi xe song mã, có phu xe cm cương tróc roi nt đường”.

       Đon mô t trên ca C Vương Hng Sn có th vào nhng năm 1920 – 1930, đúng là mt con đường dành cho gii quý tc mt thi xa xưa. Thi chúng tôi con đường ny rp bóng mát, hai bên là tre trúc, ít xe qua li, thanh vng, dân cư thưa thớt, khu vực nầy có một thời được gọi là làng Nhâm Lăng. Nhng ngày đi hc, có tiết nào Cô Thy vng thì c bn rũ nhau lang thang trên đon đường ny, không đi xe đp, xe máy hoc đi xe nga như thi xa xưa, chúng tôi đi b vòng quanh các ng vào trong xóm, ôi! toàn là tre trúc rp mát c li đi. Thường ch xướng các bui đi chơi là các bn n và cũng chc có l là các bn n mi có đ văn v đt tên cho con đường ny là “ Con đường Thanh Trúc”, nghe sao thanh tao mà nên thơ quá. Con đường ny ghi nhn biết bao nhiêu cuc tình hc trò ngây ngô d thương, có người mang con đường ny qua tn x M đ mà ngi nhc nh, thông thường ch người trong cuc, mi hiu con đường ny là con đường nào.

      Sóc Trăng mt thi tên gi là Khánh Hưng thuc Ba Xuyên, giai đon lch s bt đu thi đó có tên gi là nn đ nht cng hòa, lúc by gi chính quyn s ti bt tay vào kiến thiết tnh l, trong nhng công trình cn thiết có khu thư gin do mát cho công chc và nhân dân, t đó khuôn viên H Nước Ngt được xây dng. Tuy nhiên có giai thoi k li, vào năm 1959 ông Hoàng Mnh Thường, tnh trưởng Ba Xuyên by gi là mt người Tha Thiên. Xa quê hương, Sóc Trăng nhưng tâm hn lúc nào cũng gi v x Huế. T đó, nên ông đã cho xây h Tnh Tâm theo nguyên mu h Tnh Tâm trong Đi ni, Huế. H được xây trên khong đt rung trng, din tích h chng hai hecta, đào theo đường cong ch S mô phng theo bn đ Vit Nam, phía Bc ( i Nam quan ) quay phía ch Bông Sen, phía Nam ( mũi Cà Mau ) quay ra hướng rung, h khi công đào bng sc người, cui năm 1960 thì hoàn thành, con đường rng đi vòng theo b h chng 400m, hai bên là hàng hai dương, có các ghế đá đ ngi hóng mát, gia h ngôi nhà thy t có cây cu bt qua to khung cnh rt thơ mng. Mc du có tên là H Tnh Tâm nhưng người dân đa phương đa s gi tên là H Nước Ngt. V vn đ ny các bc cao niên k li, thu xa xưa người dân ti Sóc Trăng mun có nước ngt phi dùng ghe chài ch nước t Đi Ngãi mang v mà dùng. Bi vy có câu thơ xưa người ta ngâm nga:


  
  “Đt Sóc Trăng quê mùa nước mn

     Tôi ra Vàm Tn ch nước v xài”

( Vàm Tn tên gi Đi Ngãi thu xưa ). Thi thp niên 60 vn đ cung cp nước ngt cho người dân toàn tnh l là cn thiết, do đó ngoài chc năng là nơi vui chơi thư gin, H Tnh Tâm còn là h cha nước ngt thông qua mt kênh đào dn nước ngt t Kế Sách v, t h nước ngt nước được bơm lên d tr hai h ln ca Nha cp thy. Sau khi lng lc làm sch nước được cung cp thông qua đường ng dn đến nhân dân đ xài. Bi vy người dân Sóc Trăng quen gi là H Nước Ngt cũng chính là nguyên nhân ny.

     Đi din h Tnh Tâm là Trường tiu hc Tnh tâm, bên cnh đường là bến xe Cn Thơ, t bến xe Cn Thơ có con đường đi lên Cu Thiên H qua khu vc ch Sóc Trăng và mt con đường đến chùa Khleng, ti đây to thành mt ngã ba, t dân gian thi đó gi là "ngã ba ng qun". Câu Thiên H là cây cu làm bng st lót g có đ dc cao đ thuyn bè ln đi ngang không b cn tr. Xe đi ngang cu được điu khin bi mt người gác bng tm bng xoay qua xoay li gia cu. Trước năm 1965 các xe đò Coach, xe ti còn qua li cu ny được, thi gian các song g hư không được thay thế hay tu b, xe qua li rt nguy him, nên sau này ch có xe gn máy, xe đp và người đi b qua li cây cu ny. Đng gia cu nhìn xung nước cm thy run chân vì cu quá cao. Hi thi tôi còn nh đã nghe trong gii hc sinh đàn anh đàn ch nói đi nói li hai câu thơ, ý nghĩa mượn đ cao ca cu Thiên h đ nói lên nét m miu d thương ca con gái Ba Xuyên

      Cu nào cao bng cu Thiên h

      Gái nào ng bng gái Ba Xuyên

      Sau ny các bn tôi ( hc sinh Hoàng Diu ) ng dng hai câu thơ ny tùm lum, nhiu nơi qua các trường khác, đôi lúc cũng b các cô phn phé li,ví d như:
     
 Trai nào điên bng trai Hoàng Diu

      Gái nào điu bng gái Ba Xuyên

      Do cu b hư hng trm trng, vào cui thp niên 80 sang 90, cu d b hn và thay thế bng mt cu bê tông thp hơn nhiu, tên cu Thiên h b xóa s t lúc ny. 

     Đoạn xuyên qua thị xã là Cầu Quay, đoạn sông nầy người ta cũng thường gọi là sông Cầu Quay, câu thơ ca ngợi vẽ đẹp thời đó:  

      Cu quay nước chy lng l

      Dưới sông cá li trên b m nhân

      Hi đó đi theo các bc đàn anh lính tráng, tôi không tp được cht thanh tao tài t mà tp được tính liu mng. Cũng là k nim ca con sông Cu Quay, hôm đó mt ngày đp tri bn tôi không có đi hc, ba đa tôi,Thành và Trung ngi quán cà phê cnh b sông phía đu Doi, bên kia sông phía nhà máy Quách Sên là nhà cô bn cùng lp. T bên ny sông nhìn qua bên kia, góc nhìn rng không chướng ngi vt, thy rt rõ, nhưng t sáng đến gi đã hai tiếng đng h trôi qua, sao không thây cô ta ra khi nhà. Cái quán ny mi sáng Ch Nht ba đa luôn ngi đây như ch đi điu gì nhim mu, tri không ph người hin, thi may bên kia sông mt mt tà áo tím xut hin vi cái thau đ đi v hướng cái cu mé sông.”Cô ta ngi git áo b sông”, nghe như ging ci lương nhưng mà chuyn có thit. Đây là khu vc nước đ ra ngã ba sông, nên nước chy siết rt nguy him, không biết gì đng lc nào tôi liu mng nhy xung sông li qua bên đó, nhưng còn do d rũ thêm thng Trung cho vng tinh thn, nó chìu tôi, Thành thì trên b gi đ. Cũng ráng lm mun đt hơi tôi và Trung mi li qua ti bn, hai thng cà chói dưới nước ri ngóc đu lên gn cái thau, làm cho cô ta mt phen la lên tá ha, tôi nói dưới nước anh yêu em, nhưng s quá tưởng là thy quái chc cô ta chng nghe được gì. Hôm sau vô lp hc, xu h tôi cũng chng dám nhìn cô ta. Thi gian trôi qua đã lâu, chúng tôi đu tóc bc, thường gp nhau, nhưng biết có ai nhc nh chuyn cn con y làm gì, tôi ....ngày y b cá mp cn, chc không còn ngi đây đ k l nhng dòng ny.

 Dòng sông "Cầu quay" xuyên qua tnh l mt hướng đi theo quc l chy v Ngã By Phng Hip, đầy là loại kênh đào thời Pháp thuộc, lấy tên quan chủ tỉnh đặt cho sông gọi là sông Maspéro(tên gọi chỉ biêt qua các tài liệu lưu lại),thông thường người dân gọi là sông Cầu Quay có đoạn goi là kênh Xáng, thp niên 70 khi xây dng l vành đai người ta xây cu kênh Xáng, ti v trí ny sông Maspéro có mt con lch nh đn đi v hướng B Tho, thi đó gi là kênh Dng Thoàn. Hướng ngược li sông Maspero qua hai cây cu, cu Thiên h và Cu Quay, sông chy đến Đi Ngãi ra sông Hu ri đ ra bin. Cây cu quay làm bng st cũng được gọi là Câu Quay, mi sáng quay sang mt bên cho ghe tàu ln đi qua. Năm 1967 - 1968 cu b hư hng nng, sau đó được sa cha li nhưng c đnh luôn không còn quay được. Sau ny giao thông đường b phát trin mnh, cây cu ny được thay thế bng cu bê tông cho ti bây gi vi tên mi cu C247

      Ti v trí nhá máy Quách Sên sông r qua mt nhánh sông dn v B Tho, cây cu đen ca con l vành đai bt qua sông ny. S dĩ gi cu đen vì nó bng st sơn màu đen có t thp k 40, 50, qua thp niên 80 cu được làm li bng st ln kiên c hơn v trí cách cu đen cũ chng 100m sơn màu xám, cu đen cũ d b. Vào giai đon 1995 - 2000 song song vic tái thiết quc l 1A cu được xây bng bê tông vng chc b thế đến bây gi tên gi là cu Khánh Hưng. Dc theo b sông phía bên trường Dc Anh là dãy nhà thy t lúc nào cũng nhn nhp đông vui nht là bui chiu. Các nhà thy t thi đó đa s là quán nhu, quán ba s by trước bán  nhà thy t sông Cu bon, b d b nay cũng di v đây. Ngi trong các nhà thy t nhìn xung dòng sông, nước trôi lng l mang theo các mng lc bình tn mn, chiu chiu các cô gái áo la, tóc dài do mát trên b sông, khung cnh tht đp, nên thơ Bi vy các tay nhu thi đó đa s là các bc thanh tao tài t, ung vài cc nhìn xung dòng sông ri nhìn lên b xut khu thành thơ ngay.

       Chuyn sông Cu Quay ca tôi ch thế thôi. Hôm nay ngi lai rai vi anh Hp vài chai bia, anh huyên thuyên k chuyn tui thơ tm sông Cu Bon, tôi hơi ngc nhiên, vì lúc tôi biết nó đã quá cn. Theo anh Hp nói sông Cu Bon ( Point ) là con sông dn t thương cảng Bi Xàu v Sóc Trăng đến đu Doi đ ra sông cái, khi chưa đào con sông Câu Quay thì tại tỉnh lỵ Sóc Trăng đã có con sông Cầu Bon từ lâu rồi, có thể đây là một loại kênh đào nên nó cũng được lấy tên quan chủ tỉnh gọi là sông Delanoue, tên nầy cũng tồn tại qua các tài liệu lưu lại thời Pháp thuộc, người dân thường gọi là sông Cầu Bon, sau năm 1975 có một số tài liệu gọi là kênh Cô Bắc ( không biết ai đã đặt ra ). Nhng thp niên 50 dòng sông sâu nước chy thông thương, nên anh Hp nhy xung đó tm là chuyn thường, sau này dòng sông hp, không sâu, con nước ln tàu ghe ra vào thông th nhưng nước ròng thường b mc cn nht là đon vào khu vc dãy va xuyên qua tnh l. Dc b sông, mt bên là dãy va trái cây, đu mi t các vườn trái cây trong huyn, kế đến là hàng da thng tp gn cui đường là Trường dy đánh máy Lý Anh tn ti rt nhiu năm, dc b sông có các nhà thy t đ ngi hóng mát. Đi din vi các nhà thy t bên kia sông là khu công viên có các cây du cao, có các băng đá đ người ta ngi hóng mát, hai bên li đi có các cây hoa king, li đi không tráng xi măng hoc lót nha, mà ph bng loi đt đá bazan màu đ, gia khu công viên có cây cu tut dành cho tr em vui chơi, cạnh công viên là bưu điện trung tâm, trước bưu điện chúng ta s gp ngay tượng hai hình nm trên mt tr b xi măng. Đây là tượng ca hai người lính, một người lính Pháp, một người lính bản xứ, chân người lính đạp lên đầu con chim ó, tượng được đúc bng gang, ngun gc có th t bên Pháp mang qua.Có thể nhiều người dân Sóc Trăng không biết cái tượng nầy vì nó được đóng khung st bao quanh kín hai người lính và trang trí bên ngoài bng khu hiu Tố quốc ghi công,có người gọi đó là đài chiến sĩ trận vong chứ không ai gọi là tượng hai hình. Như vậy tượng hai hình đã tồn tại ở đây rất nhiều năm, nhưng nhiu người không biết. V chất liệu tượng làm bằng gang chứ không phải bằng đồng, vì sau năm 1975 chính quyền cách mạng đã san bằng vị trí nầy, phải nhờ đến cơ giới mới có thể kéo đi được. Tượng được kéo để sau công ty xây lắp cạnh trường Văn Hóa Nghệ Thuật, do chưa giao hẳn cơ quan nào quản lý, k xu dùng cưa và búa đp ly đng đi bán, tượng b cưa mt cánh tay, đp b đu, xt trán, không nguyên vn, nhưng khn ni tượng làm bng gang nên k xu đã dng tay, hin nay người ta di chuyn tượng hai hình v viện bảo tàng của tỉnh

     Gia khu tòa án và dinh tnh trưởng cách nhau mt con đường, con đường ny trng nhiu cây phượng rp bòng mát, v mùa hè phượng n đ rp mt góc tri, trông lãng mn lm, cánh dân hc sinh Hoàng Diu thi chúng tôi đt tên cho con đường ny là”Con đường giao h”. Chn hn ai là hc sinh vào thi đó cũng có ít nhiu k nim v con đường ny.Cui con đường có mt doanh tri quân đi gi là tri C Loa.

      Dc b sông đi din dãy va là hàng da, khu vc ny là bến xe c ly gn như Sóc trăng đi Bi Xàu, Sóc Trăng đi Nhu gia, Dù Tho.....gn bến xe là ty quan thuế. Bến xe đây có 2 loi xe, xe lam và xe du lch nhiu nht là loi xe Peugot 203 và Traction. Gn nhà tôi , tôi có quen ch Ngân hc trên tôi my lp, ch đp người, tiếng nói rn rãng, mnh dn, hay thu phc my đa nh như tôi làm đ t, nhà ch có chiếc xe Traction ca ba ch chy đường Sóc trăng Bi xàu, do quen vi ch, tôi đi xe được ba ch không ly tin, xe ngi rt êm. Xe đi qua Bi xàu bng 2 tuyến, đường Phan Thanh Gin gi là đường Bi Xàu trên, đường Nguyn Bnh Khiêm gi là đường Bi Xàu dưới, đường Bi Xàu dưới rt xu khong năm 1970 thì xe thôi chy.

        Con đường Trn Hưng Đo thng Hai Bà Trưng đến Nguyn Huỳnh Đc, sáng chiu đu gi vô hc và cui gi tan hc tri dài nhng tà áo trng n sinh trông rt nên thơ đp mt. Thp niên 60, 70 hc sinh thường đi b, mt du đon đường đến lp có khí đến ba bn cây s. Khu vc Hai Bà Trưng là khu buôn bán tp trung sm ut, gii tài phit thi y có th đ cp đến Cô Nam M, Cu Mười Đm là đu đàn trong gii buôn bán vàng bc; ti Khánh Hưng gii người Hoa buôn bán liên kết thành hi đoàn, bu ra bang trưởng đ điu hành tương tr, khuếch trương kinh doanh, thi y người ta hay nói đến ông bang Vĩnh Xuyên có nh hưởng ln thp niên 60, 70, ngành kinh doanh lúa go người ta hay nhc đến ông Hùynh Tn Truyn Bi Xàu có nh hưởng c khu vc min tây..Mt nhân vt ni tiếng trong gii đin ch ca nhng thp niên 30,sau này vn còn dư âm gi là dân giàu xưa, đó là bà ph An, có căn nhà ln như mt tòa dinh th, nm gn nhà lng ch kế rp hát Thun Hóa. S dĩ gói bà ph An vì bà là qu ph Đc ph s Lê Văn An, ông ph An mt sm bà quán xuyến s nghip tr thành người giàu nht min tây thi by gi vi hàng ngàn mu đt nm bên b kinh xáng làng Hòa Tú

      Con đường Trn Hưng Đo chy thng v hướng Bc Liêu là bến xe Bc Liêu ri đến khu vc sân bay, dc hai bên đường là khu hành chính công s như tòa hành chính, ty quan thuế, nhà băng, ty đin đa, ty kiến thiết. …Đc bit trên con đường ny có ngôi nhà hình tròn nh xinh xn là thư vin tn ti rt nhiu năm, sau ny đến thp niên 90 người ta mi d b và xây mt th vin mi.Phía sau thư vin có mt doanh tri quân đi thi đó gi là tri C Loa. 

      Cũng ti khu vc cui đường Trn Hưng Đo ch bến xe Bc Liêu, ti đây có mt ngã ba r qua con đường đt nh gi là đường Cách mng dn đến mt dãy nhà thiếc gi làng phế binh . Trên con đường Cách mng ti v trí cui  đường l 1 có mt cái ch nho nh gi là ch Nht L, ch này khong năm 1970 đã gii tán. Cũng ti v trí cui đường l 1 có mt trường hc tên Tiu hc Nht L. Sau năm 1975 đi tên là Trưởng tiu hc phường 2,  khong năm 2000 thì di trường đi nơi khác sa li làm ch phường 2.

      Trên đon sông ngoài Cu Bon còn có thêm 3 cây cu na: Cu Thun Hóa đi t lò bánh mì Nam Đô qua dãy va và rp hát Thun hóa, cu bon ni lin đường Trn Hưng Đo vi Hai Bà Trưng, trước khi xây cu Thun Hóa đã có cây cu đ gn đó đi qua dãy va thông vi đường Hoàng Diu, sau khi làm xong cu Thun Hóa người ta d b cây cu đ. Cui cùng là cu gii phóng ni lin ph ch qua xóm hành chánh. Nhng cây cu ny đu làm bng st lót g.

      Như vậy dòng kênh Cô Bắc chảy qua tỉnh lỵ có 4 cây cầu bắt ngang, khi xưa thông suốt từ Bải Xàu đổ ra đầu Doi, do càng ngày dòng sông càng ô nhim, nhiu rác rến nước không lưu thông được, các nhà thy t tn ti không đp mt gì, nên khong sau năm 1960 thì d b. Tuy dòng sông đã cn đi nhiu nhưng vn còn mt s ít ghe thuyn c vào chuyn hàng buôn bán. Năm 1956 tnh l b mt cơn bo ln, cây ci ngã đ rt nhiu, chính quyn s ti li dng tình thế ny quyết đnh không cho ghe tàu vào đây na bng cách b nhiu gc cây to xung sông cu Bon, vì thế nước nghn tt không lưu thông, dòng sông càng ô nhim. Đến năm 1969 thì đon sông Cu Bon t bến xe đến Cu gii phóng được lp hn và gii tán luôn ba cây cu ny, còn li cui cùng là cu Thun hóa, mt thi gian sau ny người ta cũng lp thêm đon sông kế tiếp và gii tán nt cây cu ny

        Ngã qua cu Thun Hóa là ngã ba Nguyn Du – Nguyn Bĩnh Khiêm. Thu nh sng Sóc Trăng, con đường đ li trong tôi nhiu k nim nht là con đường Nguyn Bĩnh Khiêm hi xưa gi là Bi Xàu dưới, con đường có cô Vĩnh Trường ngôi nhà c, đáng kính đáng mến; con đường cùng đi hc vi Tài, Lc; con đường tôi quen cô bé H.Liên hc sau tôi hai lp, gp nhau nhìn đ mt; con đường có bui hn hò đi chơi bng xe đp, cô bn cùng lp b té đ li vết so, ti gi còn nghe xót trong lòng , con đường tôi thân thiết ch Ngân, luôn mc áo dài săn tay áo, có máu anh ch; con đường tôi thân thiết ch H thùy m đoan trang. Con đường xưa gi thay đi rt nhiu, du vết cũ không còn, nhng người quen bin bit nơi xa nào đó khó mà gp. Có th nói con đường ny, người đ li trong tôi xúc cm nht thi tui nh là ch H.

      Nhà tôi cnh nhà ch H, c nhà tôi bn người, tôi và ba người anh bà con h là anh Tín; anh Cáo; anh Ngoan, ba người ny ln hơn tôi chng năm sáu tui, h đu là lính. Anh Tín là lính hi quân, anh Cáo là lính không quân, anh Ngoan là lính b binh. H thường nói kích nhau v sc lính, nht là anh Tín luôn t hào có nhiu cô gái thích vì anh luôn mc đ trng sch s, anh Cáo thì sáng nào cũng vy nguyên b đ quân phc i h bén ngót đi ti đi lui nhìn ra đường cười khoe cái răng vàng vi my em hc trò áo trng sáng đi hc. Anh Tín đơn v đóng xa lâu lâu mi v nhà mt ln, anh thường dn tôi đi ăn ung và gii thiu my người bn gái ca anh, kế bên nhà tôi thường chơi thân vi ch H, quê Ngã Năm, tôi và ch hc cùng trường Hoàng Diu, trên tôi hai lp. Anh Tín thích ch H, hai nhà cách ngăn bng vách lá, anh Tín khoét l chc ch H, ch gin lm. Có ln anh Tín viết mt bc thư kêu tôi mang qua nhà ch H, va đưa ch không coi mà xé nát và cm tôi nếu có thơ thì đng qua đây. Anh Tín không bun gì, mi ln anh v nhà hai ba ngày thì đi, tôi không giúp cho anh Tín và ch H quen nhau được, thi gian sau chiến tranh ác lit, anh Tín đi bin bit ít khi v nhà. Tôi suy nghĩ đơn gin ch H xé thơ anh Tín có nghĩa là ch ch thích mình tôi. Mi ngày tôi và ch cùng đến trường, ch coi tôi như đa em trai nh, nhưng tôi thì không nghĩ vy, mi ln ch huyên thuyên k chuyn hc hành, chuyn dưới quê, tôi không chăm chú lm mà thn th nhìn khuôn mt trái xoan, ging nói du hin và n cười tht phúc hu ca ch, hi đó mi hc đ tht nhưng tôi đã có cái cm giác kỳ l, ro rc khi nhìn b ngc căng tròn ca ch, có ln ch đng sau lưng tôi hù mt tiếng, bt mt và kéo tôi vào lòng, tôi có cm giác tê di mà không sao t được. Năm sau gia đình ch có biến c ln, m ch bnh mt, ri kế tiếp người em trai kế ca ch là anh Quý đi lính t trn, ch bun lm, tôi cũng chng biết an i được gì, mùa hè v quê, năm hc mi đến, ch không còn kế bên nhà tôi na, mi ngày tôi và ch không còn cùng đi hc trên con đường Nguyn Bĩnh Khiêm, chc có l là ch nghĩ hc, ch đi không nói vi tôi tiếng nào. T đó đến nay đã hơn 40 năm tôi không gp li ch, có điu kin xung Ngã Năm hi thăm nhiu người, người ta nói gia đình ch đã di đi nơi khác t lâu lm ri.

       Ai tng sng Sóc Trăng, chc chn s có ít nhiu k nim v nhng con đường nhng dòng sông. Cuc sng hi h, tc đ phát trin đô th hóa như vũ bo. Du vết ca mt thi trôi qua s không còn. Nhng người tng c cu đây, già ci chết ln mòn, hoc theo con cháu tn mác ra đi nhiu nơi. Nhng lp người mi do bi cnh lch s đã đến đây dn dn tr thành dân Sóc Trăng. Nói như li c Vương Hng Sn: "nhng k tng chôn nhau ct rn đây tr thanh k tha phương, vì quay li Sóc Trăng nhìn cái gì cũng l". Nhưng nói gì thì nói, dân Sóc Trăng th thit gp nhau biết lin, cái điu đc bit nht là vô s nhng câu chuyn k hoài không chán, đó là nhng câu chuyn v nhng con đường, v nhng dòng sông....

                                                                     Sóc Trăng 4/2012

_____________________________________________


VĨNH CHÂU GIÓ MUỐI NẮNG HÈ


       Gió đồng lồng lộng, cái nắng gay gắt tháng tư như đổ lửa xối trên cánh đồng trơ rạ, vùng Tài Văn, Viên An, Viên Bình người ta đang cày phơi ải để chuẩn bị cho vụ mùa sắp tới, gió hắt hiu, mùi rơm rạ và khói đốt đồng xa xa tạo cho tôi nhớ không nguôi khoảng trời tuổi thơ xa tít cũng một vùng quê như thế này, cánh đồng hai bên vệ đường chỉ có nắng và gió. Chiếc xe do Hoàng lái lao nhanh nuốt hết đoạn đường trên 20 cấy số, bỏ laị hai hàng cây bên đường, cái ồn ào quá ư hồn nhiên của chín đứa bạn tuổi năm nhăm đột xuất rủ nhau đi chơi làm cho thời gian trôi nhanh quá, phút chốc ngoằn ngoèo đã đến nhà Thoại. Ba Thoại gặp kỳ này trông khỏe ra và vui hẳn lên, câu chào hỏi gia đình, chúc sức khỏe bằng hai thứ tiếng, uống ly cà phê chân tình của gia đình chụp vài bôi hình kỷ niệm từ giả gia đình tiếp tục lên xe đi tiếp. Ông tiển chúng tôi ra tận xe trông tình cảm và vui lắm.
     
     Ngang qua vùng tôm Mỏ Ó, vượt qua cầu Mỹ Thanh 2 đến địa phận Vĩnh Châu những vuông tôm kiền kề thuộc khu vực ứng dụng công nghệ cao trong tỉnh, xa xa cũng có những biệt thự của những ông chủ tôm lập nghiệp làm ăn ở đây, rất ít người nông dân địa phương trở thành ông chủ vuông tôm tầm cở, phần lớn các nhà đầu tư ở thành phố, nơi xa đến, người nông dân địa phương chân lấm tay bùn vẫn tiếp tục chân lấm tay bùn có chút đĩnh đất đai, vốn tích lủy nhiều năm từ nghề nông, cây lúa , phong trào nuôi tôm là bước đột phá làm giàu nhanh, họ đổ vốn vaò con tôm, theo nghề tôm, trúng được vài vụ, sau đó con tôm trở chứng ngốn hết số tiền vốn dành dụm, phóng lao phải theo lao, vay ngân hàng, cấm cố đủ thứ, trong nhà xưa kia có hàng trăm gịa lúa nay không có cháo mà ăn, cuối cùng rồi phải sang nhượng cho các ông chủ mới, tiếp tục cuộc đời làm thuê. Làm thuê tại quê nhà đủ ăn không khắm khá, bỏ xứ đi Bình dương, hoặc đi xuất khẩu lao động sang Malaysia, có người bỏ xác trên đất khách quê người. Rất nhiều những câu chuyện buồn về những người nông dân nuôi tôm, nghe qua lòng người không khỏi xốn xang.
     Vĩnh Châu vùng ven biển, gió nóng mùa hè mang theo nhiều muối, các cô gái da ngâm đen, mái tóc vàng hoe tự nhiên, gặp chúng tôi họ vẫn tươi cười, dù con tôm có thế nào đi nữa cũng không ảnh hưởng gì đến họ, duy chỉ những người từng sống chết với đất chỉ biết ngửa mặt lên trời than vản “tại sao đất lại phụ người”. Các nhà máy chế biến trong tỉnh đang thiếu nguyên liệu, mà hiện nay tôm đang chết hàng loạt trên vùng này, những cánh quạt ngừng quay vì không cần thiết nữa.

    Quay quắt chuyện nuôi tôm, xe chúng tôi ngang qua xã Vĩnh Hải, đây là một trong ba xã ven biển có diện tích trồng củ hành lớn nhất. Thời điểm này cũng là mùa thu mua của các doanh nghiệp chuyên doanh hành tím. Tùy theo thị trường tiêu thụ tại Nhật Bản hay Indonesia mà các doanh nghiệp này công bố số lượng thu mua và thỏa thuận giá với bà con. Kể ra trồng củ hành không giàu mau bằng nuôi tôm, nhưng được một việc là không vở nợ bỏ xứ mà đi.

Tôi bổng nghe xốn xang về con người và vùng đất nầy, gió thì mang theo hơi muối biển, mùa hè thì nắng cháy, đường đi bụi mù, thương cho những người dân lam lũ chân lấm tay bùn. Tôi chợt nghĩ ra mấy câu thơ:

Vĩnh Châu gió muối nắng hè

Tóc em một thưở vàng hoe bụi đường

Những người nơi ấy thân thương

Củ hành, tôm, lúa vấn vương cả đời

      Đã đến giờ cơm trưa chúng tôi ghé vào một quán hải sản, món ăn ngon, rượu mang theo đem ra uống, vừa ăn, vừa có những trận cười của chín đứa ông ngoại bà ngoại ông nội bà nội rồi, mà ngỡ mình là học trò của bốn mươi năm về trước. Còn đoạn đường trên bốn mươi lăm cáy số mới về tới nhà, ghé quán bên vệ đường dùng ly nước mía ngọt lịm, mỗi người một niềm vui, mỗi người một tâm sự riêng, trong tôi nghe chan chứa đầy ắp một hương vị quê hương vừa đắng cay, vừa chan chát, vừa mặn nồng ….
                                                                                                                            Tháng 4- 2011
                                                                                                                                          LHM
Những bài đã đăng
  • Đua ghe Ngo ở Sóc Trăng
  • Về Cù Lao Dung 
  • Đình Thần Năm Ông   
  • Miền Nam Việt Nam 1949-1955https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/s-t-u-v/ttx-vanganh/chinh-the-quoc-gia-viet-nam                                                                 
                                      

Trở về Trang chủ

  LỊCH SỬ VIỆT NAM 1. Thời kì nguyên sử ( 2879 – 111   CN • Năm 2819 trc CN : người Việt cổ hình thành (lấy tTtên Bách Việt) • Chiến t...